Tải App Lotus
Quét mã QR để tải app Lotus
Nhập mã xác nhận OTP
Hãy nhập mã xác nhận đang hiển thị trên ứng dụng Lotus.
Gửi lại sau 00:30
Chúng ta cũng biết tác nhân gây COVID-19 là một dòng coronavirus không phải có nguồn gốc từ người, mà là từ động vật hoang dã là dơi (hay tê tê?) rồi lây qua người một cách tình cờ rất giống tác nhân coronavirus gây bệnh SARS vào năm 2003. Và nếu có nguồn gốc từ động vật hoang dã không phải gần người thì tác nhân gây bệnh sẽ không thể sử dụng người làm vật chủ mang mầm bệnh được.
Điểm chung của hai tác nhân SARS-CoV-2 (gây COVID-19) và tác nhân SARS-CoV (gây SARS) là rất dễ lây lan từ người qua người cũng qua thụ thể là các ACE2 có nhiều trên tế bào biểu mô hô hấp, đặc biệt là hô hấp dưới.
Nhưng SARS và COVID-19 lại có điểm khác biệt rất lớn là đa số các trường hợp mắc SARS đều có biểu hiện lâm sàng phải nhập viện và có nhiều trường hợp nặng hay thậm chí nguy kịch. Chính vì vậy, không có trường hợp người mắc SARS không triệu chứng hay triệu chứng nhẹ ở ngoài cộng đồng làm nguồn lây bệnh. Nhờ vậy mà sau khi dịch SARS bị cô lập thì đến tháng 7/2003, SARS đã biến mất. Trong khi đó, đối với dịch COVID-19 thì có trên 51% là không có triệu chứng, 30% là triệu chứng nhẹ, chỉ có 20% là cần phải nhập viện để được điều trị. Chính vì vậy, nếu không phát hiện được tất cả người mắc COVID-19 thì sẽ có 80% người nhiễm tác nhân SARS-CoV-2 trong cộng đồng và từ đây làm dịch bệnh lây lan rất nhanh.
Nhiều quốc gia trong giai đoạn đầu của dịch COVID-19 đã lơ là không kiểm soát nguồn lây vì cho rằng COVID-19 là bệnh nhẹ như cúm mùa nên hậu quả như chúng ta đã thấy rất rõ. Chỉ trong vòng 4 tháng, trên toàn thế giới đã có gần 3.7 triệu người nhiễm COVID-19 và tử vong trên 250 ngàn người mà trong đó có nhiều quốc gia tiên tiến ở châu Âu có tỷ lệ tử vong trên 15% như ở Bỉ, nhiều quốc gia khác có tỷ lệ tử vong trên 10%.
Cho đến nay, vì sự lây lan nhanh hưa thấy được điểm dừng đã khiến nhiều người cho rằng chúng ta đành phải sống chung với COVID-19 chứ chắc dịch bệnh sẽ khó thể nào chấm dứt hẳn như SARS hay MERS.
Tuy nhiên, về sự lây lan COVID-19 trong cộng đồng đòi hỏi phải có hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là phải có nhiều người mắc COVID-19 trong cộng đồng. Điều kiện thứ hai là môi trường trong cộng đồng phải thuận lợi cho tác nhân SARS-CoV-2 tồn tại được lâu dài trên các phương tiện lây nhiễm. Đó là các nơi công cộng mà tay người dễ chạm vào như phương tiện chuyên chở công cộng, tay nắm cửa, nút bấm thang máy, tay cầu thang, sàn nhà, dụng cụ ăn uống tại các nhà hàng…vì đây là các nơi sẽ nhiễm virus từ người nhiễm ở cộng đồng.
Hiện nay, nhiều quốc gia đang cố gắng để dập tắt điều kiện thứ nhất, tức là phát hiện cho được càng nhiều càng tốt người nhiễm COVID-19 trong cộng đồng để có giải pháp cách ly thích hợp. Để phát hiện được càng nhiều càng tốt các trường hợp nhiễm COVID-19, tại các quốc gia đã có dịch lây lan ngoài cộng đồng thì giải pháp được thực hiện là xét nghiệm càng nhiều càng tốt phát hiện người nhiễm SARS-CoV-2. Đối với các quốc gia chỉ có các vùng lẻ tẻ có người nhiễm COVID-19 thì giải pháp phát hiện người nhiễm COVID-19 là tập trung xét nghiệm các đối tượng có nguy cơ cao. Đó là các cư dân tại vùng có người nhiễm COVID-19, các người nhập cảnh qua đường hàng không, đường thủy hay đường bộ và đang bị tạm thời cách ly. Đồng thời, với việc phát hiện và cách ly được người nhiễm COVID-19, các giải pháp dãn cách xã hội cũng được thực hiện, từ lỏng lẽo đến chặt chẽ để làm cho dịch bệnh COVID-19 hạn chế được sự lây lan.
Các giải pháp này hiện đang được nhiều quốc gia sử dụng, tuy nhiên trên thực tế thì cũng rất khó thực hiện được một cách triệt để vì:
(i) Khó có thể làm xét nghiệm được tất cả cư dân trong cộng đồng, đặc biệt là ở những quốc gia mà dịch COVID-19 đã lây lan quá nhiều ở cộng đồng.
(ii) Dãn cách xã hội cũng khó mà duy trì được lâu dài vì các thiệt hại không chỉ về kinh tế mà cả xã hội của giải pháp này gây ra. Ngoài ra ở các nước Âu Mỹ thì giải pháp này sẽ sớm bị các người trẻ tuổi phản đối vì bản thân họ là các đối tượng không bị ảnh hưởng bởi COVID-19 nhưng lại bị thiệt hại vì mất việc làm, mất cơ hội vui chơi với bạn bè, mất cơ hội du lịch để khám phá.
Như vậy thì chúng ta chỉ mong chờ ở điều kiện thứ 2 là sẽ xuất hiện các yếu tố không thuận lợi cho tác nhân SARS-CoV-2 tồn tại được trong môi trường, và nếu điều này xảy ra thì COVID-19 chắc sẽ rút lui.
Ngày 23/4/2020, trong một buổi cập nhật về COVID-19 tại Nhà Trắng, William Bryan, cố vấn về khoa học và kỹ thuật của Bộ An Ninh Nội Địa Hoa Kỳ đã thông báo rằng tác nhân SARS-CoV-2 gây COVID-19 sẽ bị bất hoạt trong mùa hè khi nhiệt độ tăng, độ ẩm tăng và có ánh sáng mặt trời dựa trên kết quả nghiên cứu về thời gian một nửa virus còn sống sót được trình bày trong bảng 1 trình bày bên dưới đây.
Phân tích bảng này cho thấy trên bề mặt, vào mùa hè dù nhiệt độ 21-24 độ C thì virus SARS-CoV-2 có thời gian sống ½ chỉ còn 2 phút, nếu nhiệt độ tăng lên 35oC thì chắc chắn thời gian sống sẽ giảm đi 6 lần chỉ còn 20 giây. Trong không khí dưới ánh sáng hè thì SARS-CoV-2 chỉ tồn tại được trong 1.5 phút và với độ ẩm mùa hè thì chắc chắn virus sẽ chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn.
Tại Việt Nam, đặc biệt ở miền Trung và miền Nam, mùa hè đến khá sớm, từ đầu tháng 3 là nắng đã bắt đầu gắt nhiều, độ ẩm luôn dao động trong khoảng 70-80%, nhiệt độ ban ngày thường 30 độ C và hiện nay là trên 35 độ C. Đây chính là một thuận lợi rất lớn mà chúng ta có thể gọi là địa lợi, bên cạnh những giải pháp chống dịch sớm và kịp thời mà chính phủ đã đưa ra, giúp chúng ta đã và đang chiến thắng đại dịch COVID-19 mà rất nhiều nước trên thế giới phải vất vả chống chọi.
Tuy nhiên, nếu xét về khí hậu trên toàn thế giới thì cho đến tháng 7, toàn bộ bắc bán cầu sẽ vào mùa hè nắng nóng (ngoại trừ một số nơi gần cực bắc). Chính điều kiện khí hậu đó cũng là một yếu tố tích cực của thiên nhiên giúp đại dịch COVID-19 sẽ hy vọng bị đẩy lùi. Vấn đề là ở nam bán cầu hiện đang bắt đầu là mùa lạnh cho đến đầu tháng 10 mới vào mùa hè. Mà COVID-19 hiện cũng đã lan đền Nam Mỹ với một số quốc gia đang bùng phát dịch, Úc và New-Zealand dù các ca nhiễm COVID-19 chưa bùng phát nhưng nguy cơ vẫn còn lơ lững. Chính vì vậy, ở nam bán cầu phải đến sau tháng 12 thì dịch COVID-19 mới hy vọng hạ nhiệt.
Qua các nhận định như trên thì tôi cho rằng do tác nhân SARS-CoV-2 không thể nhận người làm vật chủ như cúm, rhinovirus hay dòng coronavirus của người (HCoV) nên dịch bệnh COVID-19 không thể sống chung với chúng ta như cúm mùa hay cảm lạnh. Ngoài ra virus SARS-CoV-2 cũng không thể tồn tại lâu dài trong mùa hè khi nhiệt độ tăng và độ ẩm tăng. Do vậy mà dịch COVID-19 nhiều khả năng sẽ hạ nhiệt ở Bắc bán cầu khi toàn bộ các quốc gia vào mùa hè nắng nóng (tháng 7) và nam bán cầu là tháng 12
Chúng ta sẽ không sống chung với COVID-19 như sống chung với cúm mùa hay cảm lạnh. Chúng ta cũng không thể sống chung hòa bình với COVID-19 vì nếu nhìn qua tỷ lệ tử vong trên toàn cầu là đến gần 7% và nhiều quốc gia lên đến trên 15% do bệnh COVID-19 sẽ rất nặng đối với các đối tượng có nguy cơ.
Dịch COVID-19 cũng không thể biến mất sớm và cũng có thể có nguy cơ tồn tại lâu dài nếu không kiểm soát được du lịch, đặc biệt là khi bắc bán cầu hết dịch mà nam bán cầu vẫn còn dịch hay bùng phát dịch do thời tiết thuận lợi. Chúng ta cũng không dám chắc SARS-CoV-2 sẽ không biến đổi để nhận người làm vật chủ. Chúng ta cũng chưa chắc chắn rằng những người đã nhiễm SARS-CoV-2 là có đầy đủ được miễn dịch bảo vệ để có được miễn dịch cộng đồng, để con người không mang virus lâu dài trong đường hô hấp. Chính vì vậy chúng ta phải chọn cách sống chung với COVID-19 một cách an toàn với phương châm là “tránh mình và người thân bị nhiễm bệnh và tránh lây lan bệnh ra cộng đồng”. Dĩ nhiên là chúng ta luôn muốn xã hội sớm trở lại bình thường, hoạt động kinh tế sớm phục hồi…
Nhưng càng mong muốn sớm trở lại như xưa thì việc tôn trọng các biện pháp cách ly và dãn cách xã hội trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết. Chính sự tôn trọng đó sẽ làm cho chúng ta sớm quay lại như xưa. Ngoài ra, việc đánh giá đúng thực tế tình hình dịch bệnh của chính phủ, không chỉ dựa trên các giải pháp chủ quan duy ý chí mà còn phải dựa trên sự phân tích các yếu tố thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn cho sự bùng phát hay không thể bùng phát dịch là rất cần thiết để có thể tận dụng cơ hội giúp đất nước sớm phục hồi kinh tế thoát khỏi ảnh hưởng của cơn bão đại dịch.
Theo TS. BS Phạm Hùng Vân (Chủ tịch Liên chi hội Vi Sinh lâm sàng TP. HCM)
Bài viết do team Lá chắn virus Corona thực hiện
Chúng ta cũng biết tác nhân gây COVID-19 là một dòng coronavirus không phải có nguồn gốc từ người, mà là từ động vật hoang dã là dơi (hay tê tê?) rồi lây qua người một cách tình cờ rất giống tác nhân coronavirus gây bệnh SARS vào năm 2003. Và nếu có nguồn gốc từ động vật hoang dã không phải gần người thì tác nhân gây bệnh sẽ không thể sử dụng người làm vật chủ mang mầm bệnh được.
Điểm chung của hai tác nhân SARS-CoV-2 (gây COVID-19) và tác nhân SARS-CoV (gây SARS) là rất dễ lây lan từ người qua người cũng qua thụ thể là các ACE2 có nhiều trên tế bào biểu mô hô hấp, đặc biệt là hô hấp dưới.
Nhưng SARS và COVID-19 lại có điểm khác biệt rất lớn là đa số các trường hợp mắc SARS đều có biểu hiện lâm sàng phải nhập viện và có nhiều trường hợp nặng hay thậm chí nguy kịch. Chính vì vậy, không có trường hợp người mắc SARS không triệu chứng hay triệu chứng nhẹ ở ngoài cộng đồng làm nguồn lây bệnh. Nhờ vậy mà sau khi dịch SARS bị cô lập thì đến tháng 7/2003, SARS đã biến mất. Trong khi đó, đối với dịch COVID-19 thì có trên 51% là không có triệu chứng, 30% là triệu chứng nhẹ, chỉ có 20% là cần phải nhập viện để được điều trị. Chính vì vậy, nếu không phát hiện được tất cả người mắc COVID-19 thì sẽ có 80% người nhiễm tác nhân SARS-CoV-2 trong cộng đồng và từ đây làm dịch bệnh lây lan rất nhanh.
Nhiều quốc gia trong giai đoạn đầu của dịch COVID-19 đã lơ là không kiểm soát nguồn lây vì cho rằng COVID-19 là bệnh nhẹ như cúm mùa nên hậu quả như chúng ta đã thấy rất rõ. Chỉ trong vòng 4 tháng, trên toàn thế giới đã có gần 3.7 triệu người nhiễm COVID-19 và tử vong trên 250 ngàn người mà trong đó có nhiều quốc gia tiên tiến ở châu Âu có tỷ lệ tử vong trên 15% như ở Bỉ, nhiều quốc gia khác có tỷ lệ tử vong trên 10%.
Cho đến nay, vì sự lây lan nhanh hưa thấy được điểm dừng đã khiến nhiều người cho rằng chúng ta đành phải sống chung với COVID-19 chứ chắc dịch bệnh sẽ khó thể nào chấm dứt hẳn như SARS hay MERS.
Tuy nhiên, về sự lây lan COVID-19 trong cộng đồng đòi hỏi phải có hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là phải có nhiều người mắc COVID-19 trong cộng đồng. Điều kiện thứ hai là môi trường trong cộng đồng phải thuận lợi cho tác nhân SARS-CoV-2 tồn tại được lâu dài trên các phương tiện lây nhiễm. Đó là các nơi công cộng mà tay người dễ chạm vào như phương tiện chuyên chở công cộng, tay nắm cửa, nút bấm thang máy, tay cầu thang, sàn nhà, dụng cụ ăn uống tại các nhà hàng…vì đây là các nơi sẽ nhiễm virus từ người nhiễm ở cộng đồng.
Hiện nay, nhiều quốc gia đang cố gắng để dập tắt điều kiện thứ nhất, tức là phát hiện cho được càng nhiều càng tốt người nhiễm COVID-19 trong cộng đồng để có giải pháp cách ly thích hợp. Để phát hiện được càng nhiều càng tốt các trường hợp nhiễm COVID-19, tại các quốc gia đã có dịch lây lan ngoài cộng đồng thì giải pháp được thực hiện là xét nghiệm càng nhiều càng tốt phát hiện người nhiễm SARS-CoV-2. Đối với các quốc gia chỉ có các vùng lẻ tẻ có người nhiễm COVID-19 thì giải pháp phát hiện người nhiễm COVID-19 là tập trung xét nghiệm các đối tượng có nguy cơ cao. Đó là các cư dân tại vùng có người nhiễm COVID-19, các người nhập cảnh qua đường hàng không, đường thủy hay đường bộ và đang bị tạm thời cách ly. Đồng thời, với việc phát hiện và cách ly được người nhiễm COVID-19, các giải pháp dãn cách xã hội cũng được thực hiện, từ lỏng lẽo đến chặt chẽ để làm cho dịch bệnh COVID-19 hạn chế được sự lây lan.
Các giải pháp này hiện đang được nhiều quốc gia sử dụng, tuy nhiên trên thực tế thì cũng rất khó thực hiện được một cách triệt để vì:
(i) Khó có thể làm xét nghiệm được tất cả cư dân trong cộng đồng, đặc biệt là ở những quốc gia mà dịch COVID-19 đã lây lan quá nhiều ở cộng đồng.
(ii) Dãn cách xã hội cũng khó mà duy trì được lâu dài vì các thiệt hại không chỉ về kinh tế mà cả xã hội của giải pháp này gây ra. Ngoài ra ở các nước Âu Mỹ thì giải pháp này sẽ sớm bị các người trẻ tuổi phản đối vì bản thân họ là các đối tượng không bị ảnh hưởng bởi COVID-19 nhưng lại bị thiệt hại vì mất việc làm, mất cơ hội vui chơi với bạn bè, mất cơ hội du lịch để khám phá.
Như vậy thì chúng ta chỉ mong chờ ở điều kiện thứ 2 là sẽ xuất hiện các yếu tố không thuận lợi cho tác nhân SARS-CoV-2 tồn tại được trong môi trường, và nếu điều này xảy ra thì COVID-19 chắc sẽ rút lui.
Ngày 23/4/2020, trong một buổi cập nhật về COVID-19 tại Nhà Trắng, William Bryan, cố vấn về khoa học và kỹ thuật của Bộ An Ninh Nội Địa Hoa Kỳ đã thông báo rằng tác nhân SARS-CoV-2 gây COVID-19 sẽ bị bất hoạt trong mùa hè khi nhiệt độ tăng, độ ẩm tăng và có ánh sáng mặt trời dựa trên kết quả nghiên cứu về thời gian một nửa virus còn sống sót được trình bày trong bảng 1 trình bày bên dưới đây.
Phân tích bảng này cho thấy trên bề mặt, vào mùa hè dù nhiệt độ 21-24 độ C thì virus SARS-CoV-2 có thời gian sống ½ chỉ còn 2 phút, nếu nhiệt độ tăng lên 35oC thì chắc chắn thời gian sống sẽ giảm đi 6 lần chỉ còn 20 giây. Trong không khí dưới ánh sáng hè thì SARS-CoV-2 chỉ tồn tại được trong 1.5 phút và với độ ẩm mùa hè thì chắc chắn virus sẽ chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn.
Tại Việt Nam, đặc biệt ở miền Trung và miền Nam, mùa hè đến khá sớm, từ đầu tháng 3 là nắng đã bắt đầu gắt nhiều, độ ẩm luôn dao động trong khoảng 70-80%, nhiệt độ ban ngày thường 30 độ C và hiện nay là trên 35 độ C. Đây chính là một thuận lợi rất lớn mà chúng ta có thể gọi là địa lợi, bên cạnh những giải pháp chống dịch sớm và kịp thời mà chính phủ đã đưa ra, giúp chúng ta đã và đang chiến thắng đại dịch COVID-19 mà rất nhiều nước trên thế giới phải vất vả chống chọi.
Tuy nhiên, nếu xét về khí hậu trên toàn thế giới thì cho đến tháng 7, toàn bộ bắc bán cầu sẽ vào mùa hè nắng nóng (ngoại trừ một số nơi gần cực bắc). Chính điều kiện khí hậu đó cũng là một yếu tố tích cực của thiên nhiên giúp đại dịch COVID-19 sẽ hy vọng bị đẩy lùi. Vấn đề là ở nam bán cầu hiện đang bắt đầu là mùa lạnh cho đến đầu tháng 10 mới vào mùa hè. Mà COVID-19 hiện cũng đã lan đền Nam Mỹ với một số quốc gia đang bùng phát dịch, Úc và New-Zealand dù các ca nhiễm COVID-19 chưa bùng phát nhưng nguy cơ vẫn còn lơ lững. Chính vì vậy, ở nam bán cầu phải đến sau tháng 12 thì dịch COVID-19 mới hy vọng hạ nhiệt.
Qua các nhận định như trên thì tôi cho rằng do tác nhân SARS-CoV-2 không thể nhận người làm vật chủ như cúm, rhinovirus hay dòng coronavirus của người (HCoV) nên dịch bệnh COVID-19 không thể sống chung với chúng ta như cúm mùa hay cảm lạnh. Ngoài ra virus SARS-CoV-2 cũng không thể tồn tại lâu dài trong mùa hè khi nhiệt độ tăng và độ ẩm tăng. Do vậy mà dịch COVID-19 nhiều khả năng sẽ hạ nhiệt ở Bắc bán cầu khi toàn bộ các quốc gia vào mùa hè nắng nóng (tháng 7) và nam bán cầu là tháng 12
Chúng ta sẽ không sống chung với COVID-19 như sống chung với cúm mùa hay cảm lạnh. Chúng ta cũng không thể sống chung hòa bình với COVID-19 vì nếu nhìn qua tỷ lệ tử vong trên toàn cầu là đến gần 7% và nhiều quốc gia lên đến trên 15% do bệnh COVID-19 sẽ rất nặng đối với các đối tượng có nguy cơ.
Dịch COVID-19 cũng không thể biến mất sớm và cũng có thể có nguy cơ tồn tại lâu dài nếu không kiểm soát được du lịch, đặc biệt là khi bắc bán cầu hết dịch mà nam bán cầu vẫn còn dịch hay bùng phát dịch do thời tiết thuận lợi. Chúng ta cũng không dám chắc SARS-CoV-2 sẽ không biến đổi để nhận người làm vật chủ. Chúng ta cũng chưa chắc chắn rằng những người đã nhiễm SARS-CoV-2 là có đầy đủ được miễn dịch bảo vệ để có được miễn dịch cộng đồng, để con người không mang virus lâu dài trong đường hô hấp. Chính vì vậy chúng ta phải chọn cách sống chung với COVID-19 một cách an toàn với phương châm là “tránh mình và người thân bị nhiễm bệnh và tránh lây lan bệnh ra cộng đồng”. Dĩ nhiên là chúng ta luôn muốn xã hội sớm trở lại bình thường, hoạt động kinh tế sớm phục hồi…
Nhưng càng mong muốn sớm trở lại như xưa thì việc tôn trọng các biện pháp cách ly và dãn cách xã hội trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết. Chính sự tôn trọng đó sẽ làm cho chúng ta sớm quay lại như xưa. Ngoài ra, việc đánh giá đúng thực tế tình hình dịch bệnh của chính phủ, không chỉ dựa trên các giải pháp chủ quan duy ý chí mà còn phải dựa trên sự phân tích các yếu tố thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn cho sự bùng phát hay không thể bùng phát dịch là rất cần thiết để có thể tận dụng cơ hội giúp đất nước sớm phục hồi kinh tế thoát khỏi ảnh hưởng của cơn bão đại dịch.
Theo TS. BS Phạm Hùng Vân (Chủ tịch Liên chi hội Vi Sinh lâm sàng TP. HCM)
Bài viết do team Lá chắn virus Corona thực hiện